望 觀 音 廟
伊 誰 絕 境 構 亭 臺
伐 盡 松 枝 墜 鶴 胎
石 穴 何 年 初 鑿 破
金 身 前 夜 卻 飛 來
停 雲 處 處 僧 眠 定
落 日 山 山 猿 叫 哀
一 炷 檀 香 消 慧 業
回 頭 已 隔 萬 重 崖.
阮攸
Phiên âm:
Vọng Quan Âm miếu
Y thùy tuyệt cảnh cấu đình đài
Phạt tận tùng chi trụy hạc thai
Thạch huyệt hà niên sơ tạc phá
Kim thân tiền dạ khước phi lai
Ðình vân xứ xứ tăng miên định
Lạc nhật sơn sơn viên khiếu ai
Nhất chú đàn hương tiêu tuệ nghiệp
Hồi đầu dĩ cách vạn trùng nhai.
Việt dịch:
Trông miếu Quan Âm
Đình đài ai đó dựng nơi đây,
Chặt hết cành tùng trứng hạc bay;
Động đá năm nào nay đục phá,
Tượng vàng đêm trước mất quay lui.
Mây giăng khắp chốn sư an giấc,
Chiều xuống núi đồi vượn kêu ai;
Ðốt nén hương đàn tiêu nghiệp tuệ,
Quay đầu đã cách vạn trùng nhai.
Phổ Đồng
徐 州 堤 上 望
一 河 南 北 古 爭 衡
河 上 徐 州 舊 有 名
戲 馬 舊 臺 秋 草 遍
斷 蛇 大 澤 暮 雲 平
一 城 人 物 窩 中 蟻
四 路 舟 車 水 上 萍
悵 望 紅 塵 渺 無 際
不 知 日 日 此 中 行 .
阮攸
Phiên âm:
Từ Châu đê thượng vọng
Nhất hà nam bắc cổ tranh hành
Hà thượng Từ Châu cựu hữu danh
Hí mã cựu đài thu thảo biến
Đoạn xà đại trạch mộ vân bình
Nhất thành nhân vật oa trung nghĩ
Tứ lộ chu xa thủy thượng bình
Trướng vọng hồng trần diểu vô tế
Bất tri nhật nhật thử trung hành
Nguyễn Du
Việt dịch:
Nhìn từ đê Từ Châu
Sông này nam bắc đã phân tranh
Dãi đất Từ Châu từng nổi danh
Đài xưa “Hí mã” tràn thu thảo
Đầm lớn”Đoạn xà” mây chiều giăng
Người vật một thành như tổ kiến
Thuyền xe bốn ngả, lục bình trôi
Trông xuống bụi hồng bay khắp lối
Hằng ngày nào biết bước quẩn quanh!
Phổ Đồng
梁 昭 明 太 子 分 經 石 臺
梁 朝 昭 明 太 子 分 經 處
石 臺 猶 記 分 經 字
臺 基 蕪 沒 雨 花 中
百 草 驚 寒 盡 枯 死
不 見 遺 經 在 何 所
往 事 空 傳 梁 太 子
太 子 年 少 溺 菸 文
強 作 解 事 徒 紛 紛
佛 本 是 空 不 著 物
何 有 乎 經 安 用 分
靈 文 不 在 言 語 科
孰 為 金 剛 為 法 華
色 空 境 界 茫 不 悟
癡 心 歸 佛 佛 生 魔
一 門 父 子 多 膠 蔽
一 念 之 中 魔 自 至
山 陵 不 涌 蓮 花 臺
白 馬 朝 渡 長 江 水
楚 林 禍 木 池 殃 魚
經 卷 燒 灰 臺 亦 圯
空 留 無 益 萬 千 言
後 世 愚 僧 徒 聒 耳
吾 聞 世 尊 在 靈 山
說 法 渡 人 如 恆 河 沙 數
人 了 此 心 人 自 渡
靈 山 只 在 汝 心 頭
明 鏡 亦 非 臺
菩 提 本 無 樹
我 讀 金 剛 千 遍 零
其 中 奧 旨 多 不 明
及 到 分 經 石 臺 下
終 知 無 字 是 眞 經 .
阮攸 Nguyễn Du
Thơ Việt Nam
Phiên âm:
Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài
Lương triều Chiêu Minh thái tử phân kinh xứ
Thạch đài do kí “Phân kinh” tự
Đài cơ vu một vũ hoa trung
Bách thảo kinh hàn tận khô tử
Bất kiến di kinh tại hà sở
Vãng sự không truyền Lương thái tử Thái tử
Niên thiếu nịch ư văn
Cưỡng tác giải sự đồ phân phân
Phật bản thị không bất trước vật
Hà hữu hồ kinh an dụng phân
Linh văn bất tại ngôn ngữ khoa
Thục vi Kim Cương vi Pháp Hoa
Sắc không cảnh giới mang bất ngộ
Si tâm quy Phật Phật sinh ma
Nhất môn phụ tử đa giao tế
Nhất niệm chi trung ma tự chí
Sơn lăng bất dũng liên hoa đài
Bạch mã triêu độ Trường Giang thủy
Sở lâm họa mộc trì ương ngư
Kinh quyển thiêu hôi đài diệc dĩ
Không lưu vô ích vạn thiên ngôn
Hậu thế ngu tăng đồ quát nhĩ
Ngô văn Thế Tôn tại Linh Sơn
Thuyết pháp độ nhân như Hằng Hà sa số
Nhân liễu thử tâm nhân tự độ
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu
Minh kính diệc phi đài
Bồ Đề bản vô thụ
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh
Kì trung áo chỉ đa bất minh Cập đáo
Phân kinh thạch đài hạ
Chung tri vô tự thị chân kinh .
Việt dịch:
Đài đá 'phân kinh’ của thái tử Lương Chiêu Minh
Nơi phân kinh Chiêu Minh thái tử[1],
Đài đá còn in chữ phân kinh;
Nền hoang hoa dại phủ trong mưa,
Trăm cỏ chết khô run sợ rét.
Chẳng thấy lưu kinh ở nơi nào?
Việc chỉ nghe qua Lương Thái tử;
Ấu thời người lại thích văn chương,
Cưỡng bày chú giải thêm lộn xộn.
Phật vốn là không, không chấp vật,
Vậy có kinh nào để đặt chia?
Văn linh nào nhờ nơi ngôn ngữ,
Kim Cương, Pháp Hoa là kinh gì?
Cảnh giới sắc không mà không tỏ,
Lòng mê theo Phât, Phật thành ma;
Cha con một nhà đều mù cả,
Một niệm khởi lên ma tự đến.
Lăng tẩm, đài sen không tự mọc,
Một sớm trường giang bạch mã qua;
Cây lây rừng Sở ao cá vạ,
Kinh đốt ra tro đài sập luôn.
Muôn vạn nghìn lời thôi vô ích,
Tăng ngu hậu thế miệng lải nhải;
Tôi nghe Thế tôn tại Linh Sơn,
Nói pháp độ người như số cát[2].
Người tỏ tâm này người tự độ,
Linh sơn chỉ tại tấm lòng ngươi;
Gương sáng trong veo cũng không đài,
Bồ-đề xưa nay vốn không cây.
Ta đọc Kim Cương hơn nghìn biến,
Áo chỉ trong kinh không tỏ nhiều;
Cho đến dưới đài đá phân kinh,
Cuối cùng “Vô tự” biết là chân kinh.
Phổ Đồng
[1] Thái tử Chiêu Minh đời nhà Lương.
[2] Cát sông Hằng.