戲 題
閒 來 無 事 不 清 哦
塵 外 風 流 自 一 家
珪 璧 千 重 開 疊 巘
玻 瓈 萬 頃 漾 晴 波
管 弦 嘈 雜 林 邊 鳥
羅 綺 芳 芬 塢 裡 花
眼 底 一 時 詩 料 富
吟 翁 誰 與 世 人 多
阮 廌 Nguyễn Trãi
Thơ Việt Nam
Phiên âm:
Hí đề
Nhàn lai vô sự bất thanh nga
Trần ngoại phong lưu tự nhất gia
Khuê bích thiên trùng khai điệp nghiễn
Pha lê vạn khoảnh dạng tình ba
Quản huyền tào tạp lâm biên điểu
La ỷ phương phân ổ lý hoa
Nhãn để nhất thời thi liệu phú
Ngâm ông thùy dữ thế nhân đa
Việt dịch:
Đề vui
Nhàn đến ngâm thơ khi vô sự
Phong lưu thoát tục một mình ta
Nghìn trùng núi chất giăng ngọc bích
Sóng lặng lung linh ánh nước xa
Ven rừng chim hót như đờn, sáo
Trong xóm cỏ hoa thơm lụa là
Đáy mắt hồn thơ giàu mỗi lúc
Người thơ hơn được khách đời sao?
Phổ Đồng
春 夜 宴 桃 李 園 序
夫 天 地 者, 萬 物 之 逆 旅;
光 陰 者, 百 代 之 過 客。
而 浮 生 若 夢,
爲 歡 幾 何 ?
古 人 秉 燭 夜 遊,
良 有 以 也。
況 陽 春 召 我 以 煙 景,
大 塊 假 我 以 文 章。
會 桃 李 之 芳 園,
序 天 倫 之 樂 事。
群 季 俊 秀, 皆 爲 惠 連。
吾 人 詠 歌, 獨 慚 康 樂。
幽 賞 未 已,
高 談 轉 清。
開 瓊 筵 以 坐 華,
飛 羽 觴 而 醉 月。
不 有 佳 作,
何 伸 雅 懷?
如 詩 不 成,
罰 依 金 谷 酒 數。
李白 Lý Bạch
Đoản văn Trung Quốc
Phiên âm:
Xuân dạ yến đào lý viên tự
Phù thiên địa giả, vạn vật chi nghịch lữ;
Quang âm giả, bách đại chi quá khách.
Nhi phù sinh nhược mộng,
Vi hoan ki hà?
Cổ nhân bỉnh chúc dạ du,
Lương hữu dĩ dã.
Huống dương xuân triệu ngã dĩ yên cảnh,
Đại khối giả ngã dĩ văn chương.
Hội đào lý chi phương viên,
Tự thiên luân chi lạc sự.
Quần quý tuấn tú, giai vi Huệ Liên.
Ngô nhân vịnh ca, độc tàm Khang Lạc.
U thưởng vị dĩ,
Cao đàm chuyển thanh.
Khai quỳnh diên dĩ tọa hoa,
Phi vũ thương nhi túy nguyệt.
Bất hữu giai tác,
Hà thân nhã hoài?
Như thi bất thành,
Phạt y Kim Cốc tửu sổ.
Việt Dịch:
Đêm xuân uống rượu trong vườn đào lý
Trời đất là quán trọ của muôn vật;
Thời gian là khách ghé của trăm đời.
Mà phù sinh như giấc mộng,
vui được là bao?
Người xưa cầm đuốc chơi đêm,
tin rằng có vậy.
Huống chi mùa xuân đem cảnh sương mù lôi cuốn ta,
Đất rộng dùng văn chương mời mọc ta.
Hợp mặt trong vườn thơm đào lý,
Bày cuộc vui của trời cao.
Các nàng đẹp đẽ, đều như Huệ Liên.
Chúng ta ca ngâm, thẹn cùng Khang Lạc.
Ngoạn cảnh chưa xong,
Quay sang đàm thanh.
Trải chiếu ngọc dưới hoa,
Vung chén say cùng nguyệt.
Không có văn hay,
Sao ra lòng nhã.
Như thơ không thành,
Phạt theo số rượu Kim Cốc.
Phổ Đồng
縻 中 漫 興
鐘 子 援 琴 操 南 音
莊 錫 病 中 猶 越 吟
四 海 風 塵 家 國 淚
十 旬 牢 獄 死 生 心
平 章 遺 恨 何 時 了
孤 竹 高 風 不 可 尋
我 有 寸 心 無 與 語
鴻 山 山 下 桂 江 深。
阮攸 Nguyễn Du
Thơ Việt Nam
Phiên âm:
Mỵ trung mạn hứng
Chung Tử viên cầm tháo Nam âm
Trang Tích bệnh trung do Việt ngâm
Tứ hải phong trần gia quốc lệ
Thập tuần lao ngục sinh tâm
Bình Chương di hận hà thời liễu
Cô Trúc cao phong bất khả tầm
Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ
Hồng sơn sơn hạ Quế giang thâm.
Việt dịch:
Nghĩ lung trong ngục
Trang Tích bệnh rên âm ngữ Việt
Cầm đàn Chung Tử dạo Nam âm
Bốn phương gió bụi rơi lệ nước
Lao ngục mười tuần sống chết tâm
Bình Chương di hận bao giờ hết?
Cô Trúc thanh cao không thể tầm
Ta có tấc lòng không tỏ được
Sâu như sông Quế dưới non Hồng!
Phổ Đồng
雜 詩 二
鴻 山 一 色 臨 平 渠
清 寂 可 為 寒 士 居
千 里 白 雲 生 几 席
一 窗 明 月 上 琴 書
笑 啼 徇 俗 干 戈 際
緘 默 藏 生 老 病 餘
落 葉 花 開 眼 前 事
四 時 心 境 自 如 如.
阮攸 Nguyễn Du
Thơ Việt Nam
Phiên âm
Tạp thi nhị
Hồng Sơn nhất sắc lâm bình cừ,
Thanh tịch khả vi hàn sĩ cư.
Thiên lý bạch vân sinh kỷ tịch
Nhất song minh nguyệt thướng cầm thư
Tiếu đề tuẫn tục can qua tế,
Giam mặc tàng sinh lão bệnh dư.
Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự,
Tứ thời tâm kính tự như như.
Việt dịch:
Tạp thi 2
Non Hồng soi bóng in dòng nước
Hàn sĩ ần cư nơi vắng trong
Mây trắng quanh giường xa nghìn dặm
Sách đàn trăng dõi lọt qua song
Tùy đời cười khóc qua cơn loạn
Ngậm miệng che thân dưỡng bệnh này
Hoa nở lá rơi ngay trước mắt
Cõi lòng năm tháng vẫn không thay.
Phổ Đồng
江亭有感
憶 昔 吾 翁 謝 老 時
飄 飄 蒲 駟 此 江 湄
仙 舟 激 水 神 龍 鬥
寶 蓋 浮 空 瑞 鶴 飛
一 自 衣 裳 無 覓 處
兩 隄 煙 草 不 勝 悲
百 年 多 少 傷 心 事
近 日 長 安 大 已 非
阮攸 Nguyễn Du
Thơ Việt Nam
Phiên âm
Giang Đình hữu cảm:
Ức tích ngô ông tạ lão thì,
Phiêu phiêu bồ tứ thử giang mi.
Tiên chu kích thủy thần long đấu,
Bảo cái phù không thụy hạc phi.
Nhất tự y thường vô mịch xứ,
Lưỡng đê yên thảo bất thăng bi.
Bách niên đa thiểu thương tâm sự,
Cận nhật trường an đại dĩ phi.
Việtdịch:
Cảm xúc Giang Đình
Nhớ lúc xưa, cha ta cáo lão,
Tấp nập ngựa xe bến sông này.
Thuyền tiên rẽ nước rồng giao đấu,
Lọng quý trên không hạc gieo lành.
Từ khi xiêm áo không tìm thấy,
Khói cỏ đôi bờ chịu bi thương.
Cận nhật kinh thành nhiều khác lạ,
Trăm năm nhiều ít chuyện thương tâm!
Phổ đồng
子 夜 秋 歌
長 安 一 片 月,
萬 戶 擣 衣 聲。
秋 風 吹 不 盡,
總 是 玉 關 情。
何 日 平 胡 虜,
良 人 罷 遠 征?
李白 Lý Bạch
Thơ Trung Quốc
Phiên âm:
Tử Dạ thu ca
Trường An nhất phiến nguyệt,
Vạn hộ đảo y thanh.
Thu phong xuy bất tận,
Tổng thị Ngọc quan tình.
Hà nhật bình Hồ lỗ,
Lương nhân bãi viễn chinh ?
Việt dịch:
Bài hát mùa thu của nàng Tử Dạ
Trường An một mảnh trăng trong
Tiếng chày đập áo điểm vang mọi nhà
Gió thu thổi mãi không già
Ngọc Quan tình mộng bao la là tình
Hồi nào Hồ Lỗ được bình
Cho chàng thôi việc viễn chinh đây nè?
Phổ Đồng
桃 花 溪
隱 隱 飛 橋 隔 野 煙,
石 磯 西 畔 問 漁 船。
桃 花 盡 日 隨 流 水,
洞 在 清 溪 何 處 邊。
張旭 Trương Húc
Thơ Trung Quốc
Phiên âm:
Đào hoa khê
Ẩn ẩn phi kiều cách dã yên,
Thạch cơ tây bạn, vấn ngư thuyền.
Đào hoa tận nhật tuỳ lưu thuỷ,
Động tại thanh khê hà xứ biên ?
Việt Dịch:
Suối hoa đào
Thấp thoáng cầu bay sau khói mờ
Bờ tây ghềnh đá hỏi thuyền câu
Hoa đào sớm tối theo dòng nước
Động tại suối trong ở bên nào?
Phổ Đồng
楓 橋 夜 泊
月 落 烏 啼 霜 滿 天,
江 楓 漁 火 對 愁 眠。
姑 蘇 城 外 寒 山 寺,
夜 半 鐘 聲 到 客 船。
張繼 Trương Kế
Thơ Trung Quốc
Phiên âm:
Phong Kiều dạ bạc
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hoả đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Việt dịch:
Nửa đêm đậu bến Phong Kiều
Trăng tàn tiếng quạ giăng sương
Bờ phong đối lửa chài vương giấc buồn
Cô Tô thành ngoại Hàn sơn
Nửa đêm chuông động mộng con khách thuyền!
Phổ Đồng
秋興其一
玉 露 凋 傷 楓 樹 林,
巫 山 巫 峽 氣 蕭 森。
江 間 波 浪 兼 天 湧,
塞 上 風 雲 接 地 陰。
叢 菊 兩 開 他 日 淚,
孤 舟 一 繫 故 園 心。
寒 衣 處 處 催 刀 尺,
白 帝 城 高 急 暮 砧。
杜甫 Đỗ Phủ
Thơ Trung Quốc
Phiên âm:
Thu hứng kỳ 1
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu Sơn, Vu Giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Việt dịch:
Cảm xúc thu 1
Rừng phong xơ xác sương mù
Núi thiêng linh khí âm u phủ đầy
Giữa dòng sóng dậy trời mây
Gió ngưng phủ ải đường mây tiếp trần
Lệ xa cúc nở hai lần
Thuyền cô chỉ buộc tình son quê nhà
May hàn y, giục mọi nhà
Thành cao Bạch đế ác tà chày vang.
Phổ Đồng
春 思
燕 草 如 碧 絲,
秦 桑 低 綠 枝;
當 君 懷 歸 日,
是 妾 斷 腸 時。
春 風 不 相 識,
何 事 入 羅 幃?
李白 Lý Bạch
Thơ Trung quốc
Phiên âm:
Xuân tứ
Yên thảo như bích ty,
Tần tang đê lục chi;
Đương quân hoài quy nhật,
Thị thiếp đoạn trường thì.
Xuân phong bất tương thức,
Hà sự nhập la vi ?
Việt dịch:
Cảm nghĩ xuân
Cỏ Yên xanh biếc tơ trời
Dâu Tần lả ngọn lửng lơi xanh vàng
Ngày về mong đợi nơi chàng
Là khi lòng thiếp đứt từng khúc thôi
Gió xuân không biết kia ơi !
Tại sao cứ mãi lả lơi bên màn?
Phổ Đồng
春夜
黑 夜 韶 光 何 處 尋
小 窗 開 處 柳 陰 陰
江 湖 病 到 經 時 久
風 雨 春 隨 一 夜 深
羈 旅 多 年 燈 下 淚
家 鄉 千 里 月 中 心
南 臺 村 外 龍 江 水
一 片 寒 聲 送 古 今
阮攸 Nguyễn Du
Thơ Việt Nam
Phiên âm:
Xuân dạ
Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm?
Tiểu song khai xứ liễu âm âm
Giang hồ bệnh đáo kinh thời cữu,
Phong vũ xuân tuỳ nhất dạ thâm
Kỳ lữ đa niên đăng hạ lệ,
Gia hương thiên lý nguyệt trung tâm
Nam Đài thôn ngoại Long giang thuỷ
Nhất phiến hàn thanh tống cổ câm (kinh).
Việt dịch:
Đêm xuân
Thâm u hàng liễu bên song cửa
Đêm tối ánh dương nơi nào tầm?
Giang hồ bệnh đến bao năm tháng
Theo gió mưa xuân đêm càng thâm
Nhiều năm lữ khách chong đèn lệ
Nghìn dặm quê nhà trăng dõi tâm
Ngoài xóm Nam Đàn Long giang chảy
Đưa hoài kim cổ lạnh dòng trôi.
Phổ Đồng
村 夜
青 草 村 前 臥 老 翁
江 南 夜 色 上 廉 攏
滿 天 明 月 一 池 水
半 壁 寒 燈 萬 樹 風
老 去 未 知 生 計 拙
障 消 時 覺 夙 心 空
年 年 結 得 魚 樵 侶
笑 傲 湖 煙 野 草 中。
阮攸 Nguyễn Du
Thơ Việt Nam
Phiên âm:
Thôn dạ
Thanh thảo thôn tiền ngoạ lão ông,
Giang nam dạ sắc thướng liêm lung.
Mãn thiên minh nguyệt nhất trì thuỷ,
Bán bích hàn đăng vạn thụ phong.
Lão khứ vị tri sinh kế chuyết,
Chướng tiêu thời giác túc tâm không.
Niên niên kết đắc ngư tiều lữ,
Tiếu ngạo hồ yên dã thảo trung.
Việt dịch:
Đêm làng
Cỏ xanh trước xóm lão ông nằm
Bao phủ sông nam đặc bóng đêm
Trăng sáng đầy trời ao rủ xuống
Đèn hiu nửa vách gió lạnh căm
Già đến vụng đường không sinh kế
Chướng tiêu tâm cũ bỗng nhàn an*
Ngư Tiều kết bạn qua năm tháng
Tiếu ngạo trong vùng cỏ khói lam.
Phổ Đồng
*Nhàn an: chỉ cho nghĩa "không" của nhà Phật, không còn vướng bận nghiệp chướng nữa.
題二青洞
盤 古 初 分 不 記 年
山 中 生 窟 窟 生 泉
萬 般 水 石 擅 大 巧
一 粒 乾 坤 開 小 天
滿 境 皆 空 何 有 相
此 心 常 定 不 離 禪
大 師 無 意 亦 無 盡
俯 嘆 城 中 多 變 遷。
阮攸 Nguyễn Du
Thơ Việt Nam
Phiên âm:
Đề Nhị Thanh động
Bàn cổ sơ phân bất ký niên,
Sơn trung sinh quật, quật sinh tuyền.
Vạn ban thuỷ thạch thiện đại xảo,
Nhất lạp càn khôn khai tiểu thiên.
Mãn cảnh giai không hà hữu tướng?
Thử tâm thường định bất ly thiền.
Đại sự vô ý diệc vô tận,
Phủ thán thành trung đa biến thiên.
Việt dịch:
Đề động Nhị Thanh
Bàn cổ mới phân năm không nhớ
Núi khe hang động từ núi sanh
Đá khe muôn khúc vô cùng tuyệt
Một hạt càn khôn thế giới thành
Khắp cảnh đều không có tướng nào?
Tâm này luôn định không lìa Thiền
Đại sư* không ý không cùng tận
Lắm cảnh trong thành lại biến thiên!
Phổ Đồng
* Đại sư, bậc Thầy vĩ đại chỉ cho đức Phật.
道 意
明 月 照 古 并
并 水 無 波 濤
不 被 人 牽 扯
此 中 心 不 搖
縱 被 人 牽 扯
一 搖 還 復 止
湛 湛 一 片 心
明 月 古 并 水.
阮攸 Nguyễn Du
Thơ Việt Nam
Phiên âm:
Đạo ý
Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh,
Tỉnh thuỷ vô ba đào.
Bất bị nhân khiên xã,
Thử tâm trung bất dao.
Túng bị nhãn khiên xã,
Nhất dao hoàn phục chỉ.
Trạm trạm nhất phiến tâm,
Minh nguyệt cổ tỉnh thuỷ.
Việt dịch:
Ý đạo
Trăng sáng chiếu giếng xưa
Nước giếng không nổi sóng
Không bị người khuấy đảo
Tâm này tất không động.
Dù bị người khuấy đảo
Qua động lại lặng ngưng
Trong sáng một tấm lòng
Nước giếng xưa, trăng sáng.
Phổ Đồng
憶 妾 深 閨 裏,
煙 塵 不 曾 識。
嫁 與 長 幹 人,
沙 頭 候 風 色。
五 月 南 風 興,
思 君 在 巴 陵。
八 月 西 風 起,
想 君 發 揚 子。
去 來 悲 如 何,
見 少 別 離 多。
湘 潭 幾 日 到,
妾 夢 越 風 波。
昨 夜 狂 風 度,
吹 折 江 頭 樹。
淼 淼 暗 無 邊,
行 人 在 何 處。
北 客 真 王 公,
朱 衣 滿 江 中。
日 暮 來 投 宿,
數 朝 不 肯 東。
好 乘 浮 雲 驄,
佳 期 蘭 渚 東。
鴛 鴦 綠 浦 上,
翡 翠 錦 屏 中。
自 憐 十 五 餘,
顏 色 桃 李 紅。
那 作 商 人 婦,
愁 水 復 愁 風。
李白 Lý Bạch
Thơ Trung quốc
Phiên âm:
Trường Can hành kỳ 2
Ức thiếp thâm khuê lý
Yên trần bất tằng thức
Giá dữ Trường Can nhân
Sa đầu hậu phong sắc
Ngũ nguyệt nam phong hưng
Tư quân há Ba Lăng
Bát nguyệt tây phong khởi
Tưởng quân phát Dương Tử
Khứ lai bi như hà ?
Kiến thiểu biệt ly đa!
Tương Đàm kỷ nhật đáo ?
Thiếp mộng việt phong ba
Tạc dạ cuồng phong độ
Xuy chiết giang đầu thụ
Diễu diễu ám vô biên
Hành quân tại hà xứ ?
Bắc khách chân vương công,
Chu y mãn giang trung.
Nhật mộ lai đầu túc,
Sổ triêu bất khẳng đông.
Hảo thừa phù vân thông
Giai kỳ Lan chử đông
Uyên ương lục bồ thượng
Phí thuý cẩm bình trung
Tự liên thập ngũ dư
Nhan sắc đào lý hồng
Na tác thương nhân phụ
Sầu thuỷ phục sầu phong!
Việt dịch:
Bài hát Trường Can 2
Nhớ xưa thiếp ở khuê phòng
Khói lam chưa bén bụi hồng chửa cam
Từ theo người đất Trường Can
Thường lên đầu núi ngóm xem gió mùa
Tháng năm mùa nổi gió nam
Nghĩ chàng xuống huyện Ba Lăng đâu rồi
Tháng tám mùa nổi gió tây
Đến sông Dương Tử bao ngày chàng qua
Đến nay đau khổ thế nào?
Gần nhau thời ít xa nhau thời nhiều
Tương Đàm ngày đến bao nhiêu
Mà trong mộng thiếp gặp nhiều phong ba
Cuồn phong thổi trận đêm qua
Bẻ cây xơ xã thổi bừa đầu sông
Chàng bên gió tối mịt mùng
Bước chân không biết đâu vùng đâu nơi!
Thiếp mong cưỡi ngựa mây trôi
Hẹn nhau tìm gặp chân trời bãi Lan
Như uyên ương cỏ Bồ xanh
Và đôi phỉ thúy đậu cành bình phong
Cảm thương thiếp tuổi trăng tròn
Hồng nhan như đóa đào hồng mởn mơ
Mà nay là vợ thương cơ
Hết sầu vì nước lại sầu gió qua.
Phổ Đồng
妾 髮 初 覆 額,
折 花 門 前 劇;
郎 騎 竹 馬 來,
繞 床 弄 青 梅。
同 居 長 千 里,
兩 小 無 嫌 猜。
十 四 為 君 婦,
羞 顏 未 嘗 開;
低 頭 向 暗 壁,
千 喚 不 一 回。
十 五 始 展 眉,
願 同 塵 與 灰,
常 存 抱 柱 信,
豈 上 望 夫 台?
十 六 君 遠 行,
瞿 塘 灩 澦 堆;
五 月 不 可 觸,
猿 聲 天 上 哀。
門 前 遲 行 跡,
一 一 生 綠 苔。
苔 深 不 能 掃,
落 葉 秋 風 早。
八 月 蝴 蝶 黃,
雙 飛 西 園 草;
感 此 傷 妾 心,
坐 愁 紅 顏 老。
早 晚 下 三 巴,
預 將 書 報 家;
相 迎 不 道 遠,
李白Lý Bạch
Thơ Trung quốc
Phiên âm:
Trường Can hành kỳ 1
Thiếp phát sơ phú ngạch
Chiết hoa môn tiền kịch
Lang kỵ trúc mã lai
Nhiễu sàng lộng thanh mai
Đồng cư Trường Can lý
Lưỡng tiểu vô hiềm sai
Thập tứ vi quân phụ
Tu nhan vị thường khai
Đê đầu hướng ám bích
Thiên hoán bất nhất hồi
Thập ngũ thuỷ triển mi
Nguyện đồng trần dữ hôi
Thường tồn bão trụ tín
Khởi thướng Vọng Phu đài
Thập lục quân viễn hành
Cù Đường , Diễm Dự đôi
Ngũ nguyệt bất khả xúc
Viên thanh thiên thượng ai
Môn tiền trì hành tích
Nhất nhất sinh lục đài
Đài thâm bất năng tảo
Lạc diệp thu phong tảo
Bát nguyệt hồ điệp hoàng
Song phi tây viên thảo
Cảm thử thương thiếp tâm
Toạ sầu hồng nhan lão
Tảo vãn há Tam Ba
Dự tương thư báo gia
Tương nghênh bất đạo viễn
Trực chí Trường Phong Sa
Việt dịch:
Bài hát Trường Can 1
Thiếp xưa tóc xỏa ngang mày
Bẻ hoa trước ngõ chơi đùa gió mây
Chàng qua với ngựa tre này
Dạo quanh giường thiếp nghịch mai những lần
Hai ta cùng ở Trường Can
Tuổi thơ vui hợp chẳng màn để tâm
Theo chồng mười bốn tuổi xuân
Thẹn thùng úp mặt những lần nhìn nhau
Cúi đầu về phía tường sâu
Nghìn lần chàng gọi gục đầu chẳng quay
Mười lăm vừa biết mở mày
Nguyền như cát bụi tháng ngày bên nhau
Giữ niềm son sắc về sau
Há lên đài vọng phu sầu hay sao?
Chàng đi mười sáu tuổi đời
Cồ Đường, Diễm Dự đôi, nơi xa mù
Tháng năm không thể đến nơi
Đường đi vượn hú bên trời bi ai!
Dấu xưa còn lại cổng ngoài
Rêu xanh phủ kín một vài lối qua
Làm sao quét hết rêu dày
Gió thu thổi sạch, những ngày lá bay
Tháng tám đàn bướm lại đây
Vườn Tây đôi bướm lượn bay chập chờn
Cảm này sao chẳng đau lòng!
Ngồi buồn thiếp thấy má hồng phôi pha
Mốt mai chàng xuống Tam Ba
Nhớ xin thư báo về nhà biết nha
Đón chàng chẳng ngại đường xa
Thiếp xin đến Trường Phong Sa gặp chàng.
Phổ Đồng
春 風 搖 蕩 自 東 來,
折 盡 櫻 桃 綻 盡 梅。
唯 餘 思 婦 愁 眉 結,
無 限 春 風 吹 不 開。
白居易 Bạch cư Dị
Thơ trung quốc
Phiên âm:
Tư phụ my
Xuân phong dao đãng tự đông lai,
Chiết tận anh đào trán tận mai.
Duy dư tư phụ sầu mi kết,
Vô hạn xuân phong xuy bất khai.
Việt dịch:
Thiếu phụ mi sầu
Gió xuân lay động tự hướng đông
Rụng cả anh đào lẫn tận mai
Chỉ có mi em sầu phong kín
Gió xuân nào thổi để mi khai?
Phổ Đồng
美 人 捲 珠 簾
深 坐 蹙 蛾 眉
但 見 淚 痕 濕
不 知 心 恨 誰
李白 Lý bạch
Thơ Trung quốc
Phiên âm:
Oán tình
Mỹ nhân quyển châu liêm
Thâm toạ tần nga my
Đản kiến lệ ngân thấp
Bất tri tâm hận thuỳ.
Việt dịch:
Tình oán
Rèm châu em cuốn bao giờ
Ngồi yên không nói đôi bờ mi chao
Để cho lệ ướt rưng trào
Lòng em không biết hận vào nơi ai?
Phổ Đồng
鴻 山 山 月 一 輪 明
千 里 長 安 此 夜 情
太 璞 不 全 眞 面 目
一 州 何 事 小 功 名
有 生 不 帶 公 侯 骨
無 死 終 尋 豕 鹿 盟
羨 殺 北 窗 高 臥 者
平 居 無 事 到 虛 靈
阮攸 Nguyễn Du
Thơ Việt nam
Phiên âm:
Ký hữu
Hồng Sơn sơn nguyệt nhất luân minh,
Thiên lý Trường An thử dạ tình.
Thái phác bất toàn chân diện mục,
Nhất châu hà sự tiểu công danh.
Hữu sinh bất đái công hầu cốt,
Vô tử chung tầm thỉ lộc minh.
Tiễn sát bắc song cao ngoạ giả,
Bình cư vô sự đáo hư linh .
Việt dịch:
Gởi bạn
Một mảnh trăng soi khắp núi Hồng
Kinh đô nghìn dặm nhớ đêm nay
Ngọc thô chưa lộ chân diện mục*
Công danh nào bận một châu này?
Còn sống không mang công hầu cốt
Nếu không chỉ bạn lợn và nai
Muốn làm người rảnh rang cửa bắc
Bình an vô sự đạt tâm không.
Phở Đồng
* Chân diện mục chỉ cho bộ mặt thật xưa nay của chúng ta (ẩn dụ).
昔人已乘黃鶴去,
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是,
煙波江上使人愁。
崔顥 Thôi hiệu
Thơ Trung quốc
Phiên âm:
Hoàng hạc lầu
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu .
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Việt dịch:
Làu Hoàng hạc
Người xưa cỡi hạc đi rồi
Để cho lầu hạc nơi này trống không.
Hạc vàng đi mãi không hoàn
Nghìn năm mây trắng vẫn còn bay bay.
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xanh Anh Vũ rậm dày cỏ thơm.
Quê nhà đâu nhĩ hòang hôn?
Trên sông khói sóng khiến buồn người ta!
Phổ Đồng
不向東山久,
薔薇幾度花。
白雲還自散,
明月落誰家。
李白 Lý Bạch
Thơ Trung quốc
Phiên âm:
Ức Đông Sơn kỳ 1
Bất hướng Đông Sơn cửu,
Tường vi kỷ độ hoa ?
Bạch vân hoàn tự tán,
Minh nguyệt lạc thuỳ gia ?
Việt dịch:
Nhớ Đông Sơn kỳ 1
Đã lâu không đến Đông sơn
Tường vi năm ấy mấy lần trổ bông?
Hợp tan mây trắng vô thường
Nhà ai trăng sáng lồng vương trước thềm?
Phổ Đồng
今日花前飲,
甘心醉數杯。
但愁花有語,
不為老人開。
劉禹錫 Lưu vũ Tích
Thơ Trung quốc
Phiên âm:
Ẩm tửu khán mẫu đơn
Kim nhật hoa tiền ẩm
Cam tâm tuý sổ bôi
Đãn sầu hoa hữu ngữ:
Bất vị lão nhân khai.
Việt dịch:
Uống rượu ngắm Mẫu đơn
Nay nhấp rượu trước hoa
Cam tâm say vài chén
Chỉ sợ hoa lên tiếng
Không nở vì lão ông!
Phổ Đồng
真宰無私心,
萬物逞殊形;
嗟爾蘭蕙質,
遠离幽谷青。
清風暗助秀,
雨露濡其冷;
一朝居上苑,
桃李讓芳馨。
王幼玉 Vương Ấu Ngọc
Thơ Trung Quốc
Phiên âm : Vô đề 1
Chân tể vô tư tâm,
Vạn vật sính thù hình;
Ta nhĩ lan huệ chất,
Viễn ly u cốc thanh.
Thanh phong âm trợ tú,
Vũ lộ nhu kỳ lãnh;
Nhất triêu cư thượng uyển,
Đào lý nhượng phương hinh.
Việt dịch: Không đề 1
Chúa tể tâm vô tư
Vạn vật mặc đủ hình
Người thân thể lan huệ
Rời xa cốc thẩm xanh
Gió lặng câm, càng đẹp
Mưa sương ngấm lạnh tanh
Một sớm nơi thượng uyển
Lý đào nhường cỏ thơm.
Phổ Đồng
瀟湘水暖花正妍,
綠莎汀畔水連天;
輕舟載得春來少,
無數飛紅到槳邊。
柳富 Liễu Phú
Thơ Trung Quốc
Phiên âm: Vô đề 1
Tiêu Tương thuỷ noãn hoa chính nghiên
Lục sa đinh bạn thuỷ liên thiên
Khinh chu tải đắc xuân lai thiểu
Vô số phi hồng đáo tưởng biên.
Việt dịch: Không đề 1
Tiêu Tương nước ấm nên hoa đẹp
Xanh cỏ sông Đinh nước liền trời
Thuyền nhẹ chở xuân về ít ỏi
Cạnh chèo nhiều hoa đỏ bay sang.
Phổ Đồng